Đánh giá độc tính cấp và ảnh hưởng đến chức năng tạo máu của bài thuốc Xương khớp bà Gioóng
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá độc tính cấp và ảnh hưởng lên chức năng tạo máu trên thực nghiệm của bài thuốc Xương khớp bà Gioóng.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu độc tính cấp thực hiện trên chuột nhắt trắng bằng đường uống dựa theo phương pháp Litchfield-Wilcoxon; Ảnh hưởng trên chức năng tạo máu thực hiện trên 30 chuột cống (Lô chứng: uống nước cất 1mL/kg trọng lượng cơ thể (TLCT) ; Lô trị 1: 14g dược liệu/kg TLCT ; Lô trị 2: 42g dược liệu/kg TLCT. Chuột được uống nước cất hoặc thuốc thử trong 90 ngày liên tục.
Kết quả: Không có độc tính cấp của Xương khớp bà Gioóng khi dùng theo đường uống. Với liều lượng Xương khớp bà Gioóng cao nhất có thể đưa vào dạ dày chuột nhắt trắng là 375,0 g dược liệu/kg trọng lượng cơ thể (gấp 15,635 liều dùng trên người) không gây chết chuột nhắt trắng thực nghiệm; Xương khớp bà Gioóng không ảnh hưởng lên chức năng tạo máu của động vật thực nghiệm ở hai liều 14g dược liệu/kg TLCT và 42g dược liệu/kg TLCT uống trong 90 ngày liên tiếp.
Kết luận: Bài thuốc Xương khớp bà Gioóng không có độc tính cấp khi dùng theo đường uống và không ảnh hưởng lên chức năng tạo máu của động vật thực nghiệm.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Thoái hóa khớp gối, xương khớp bà Gioóng.
Tài liệu tham khảo
2. Bộ Y tế. Thông tư 42/2017/TT-BYT Danh mục dược liệu độc sử dụng làm thuốc, 2017.
3. Đố Trung Đàm. Phương pháp nghiên cứu tác dụng dược lý của thuốc từ dược thảo, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, 2006, tr. 335- 342, 347-352, 355-368, 377-392.
4. Bộ Y tế. Dược điển Việt Nam V, Nhà xuất bản y học, 2018.
5. Shen P., Lin W., Ba X. và cộng sự. Quercetinmediated SIRT1 activation attenuates collagen-induced mice arthritis. Journal of Ethnopharmacology, 2021, pp. 279, 114213.
6. Kim H.S. Kim A.-R., Lee J.M. và cộng sự. A mixture of Trachelospermi caulis and Moutan cortex radicis extracts suppresses collageninduced arthritis in mice by inhibiting NF-κB and AP-1. Journal of Pharmacy and Pharmacology, 2012, 64(3), pp. 420-429.